

Hômnay là ngày 21 tháng 5 năm 2008. Chúng ta đang ở tại thiềnđường Trăng Rằm của tổ đình Từ Hiếu.
Bạn đang xem: Tứ diệu đế thích nhật từ
Nếucó người hỏi, thầy biết Tứ Diệu Đế chưa, sư cô biếtTứ Diệu Đế chưa, đạo hữu biết Tứ Diệu Đế chưa, thìmình trả lời thế nào cho đúng? Từ hồi mới vô chùa, mìnhđã được học về Khổ, Tập, Diệt, Đạo và mình nghĩ rằng,mình đã biết rồi. Nhưng cái hiểu, cái biết của mình vềTứ Diệu Đế có thể càng ngày càng sâu hơn và cái hiểucách đây ba bốn chục năm có thể còn ngây thơ, cạn cợt.
Nếucó ai hỏi, thầy Nhất Hạnh đã hiểu hết Tứ Diệu Đếchưa? - tôi sẽ trả lời, chưa! Tôi hiểu đã khá, nhưngchưa hiểu hết. Sang năm tôi có thể hiểu về Tứ Diệu Đếsâu hơn năm này. Cứ như vậy cái hiểu của mình càng ngàycàng sâu hơn, cao hơn nếu mình có tu, có học, nếu mình khôngnghĩ rằng mình đã hiểu rồi. Sự thật là mình chưa hiểuhoàn toàn, mình chỉ hiểu một ít thôi. Cái này cũng đúngvới Bát Chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phận,Bát Thánh đạo phần.
Nếunói tôi đã hiểu rồi thì không đúng, dù đó là vị Phápsư đã từng tu học và giảng dạy năm, bảy năm. Nhờ sựtu học mình có thể hiểu sâu thêm những giáo lý mà ban đầumình tưởng đơn sơ dễ hiểu như Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.Thầy Nhất Hạnh có cái hiểu khá sâu về Tam bảo, nhưng thầyNhất Hạnh chưa hiểu hết được và sang năm Thầy sẽ cócái hiểu sâu hơn về Tam bảo. Điều đó là sự thật. Chonên nghĩ rằng mình đã hiểu thế nào là Tam bảo, Tứ DiệuĐế rồi là một ảo tưởng, một sự sai lầm.
Mìnhhiểu chưa nhiều lắm đâu. Có thể mình mới chỉ có vàiba khái niệm sơ lược về giáo lý đó về Tam bảo, Tứ DiệuĐế, Bát Chánh đạo.
Bốnsự thật mầu nhiệm.
Ngàyxưa có Tổ dịch Tứ Diệu Đế là Tứ Thánh đế. Thánh cónghĩa là linh thiêng. Tứ Thánh Đế là bốn sự thật linh thiêng.Tứ Diệu Đế là bốn sự thật mầu nhiệm. Đế là sự thật.Nhìn vào chữ đế, chữ Hán, mình thấy người Hoa có quanniệm về sự thật. Một bên là chữ ngôn, một bên là chữđế. Lời nói của ông Vua. Lời của ông Vua phải là sựthật, chưa chắc. Lời nói của ông vua có thể như đóng đinhnhưng chưa chắc đã là sự thật. Sự thật là đối tượngcủa sự tìm tòi. Nhà tu cũng như nhà khoa học luôn luôn cóý hướng muốn đào sâu, muốn tìm tòi. Nếu mình nghĩ rằngmình hiểu rồi, biết hết rồi thì sự tìm tòi đó chấmdứt. Nhà khoa học cũng vậy, nhà tu cũng vậy. Nhà khoa họcsử dụng những máy móc tinh xảo, nhà tu sử dụng thân khẩuý, niệm, định, tuệ để tìm tòi. Nếu mình tìm tòi cho đànghoàng, đi sâu vào thì mình sẽ phát minh ra sự thật và càngtìm tòi thì sự thật càng được phát minh sâu hơn, lớn hơn,rộng hơn. Tiếng Phạn là Arya. Arya có nghĩa là cao quý. Sựthật này là sự thật rất cao quý. Cho nên người Tây phươngdịch là noble truth, có thể dịch là holy truth, hoặc WonderfulTruth. Tây phương bây giờ dịch noble từ chữ Arya. Sự thậtcao quý, sự thật thánh thiện, sự thật mầu nhiệm.
Sựthật thứ nhất là Dukha - Khổ.
Tâyphương dùng chữ illbeing để dịch chữ Dukha. Illbeing là khóở, có bệnh tật, có cái gì không suông chảy, bế tắc. Illbeinglà đối lại với wellbeing. Wellbeing là sự sảng khoái, sựthông suốt, an vui, không có vấn đề. Chữ khổ ở đây cónghĩa là không thoải mái, không hạnh phúc, không thông thoáng,bị bế tắc, khổ đau. Khi mình học thì thầy có thể dạyrằng, sự thật thứ nhất, Khổ đế, có nghĩa đời là khổ.
Nóiđời là khổ thì cũng đúng nhưng chỉ đúng phần nào thôivà bắt buộc mình tin rằng đời chỉ có khổ. Đời chỉlà khổ thôi chứ không là cái gì khác, đó không phải làsự thật toàn vẹn. Giảng sự thậtthứ nhất đời là khổ, life is illbeing là chỉ đúngphân nữa sự thật vì đời cũng có thể rất vui, có thểthoải mái, thông thoáng, nhẹ nhàng, không phải chỉ bế tắcsầu khổ mà thôi. Cho nên sự thậtthứ nhất không phải đời là khổ.
Sựthật thứ nhất là khổ đau đang có mặt vàhạnh phúc cũng đang có mặt
Khổđau đang có mặt là một sự thật. Nhưng sự thật đó khôngtrái chống lại sự thật khác, nó nằm phía sau lưng là hạnhphúc cũng đang có mặt, cũng có thể đang có mặt, nhưng chưacó cơ hội biểu hiện ra mà thôi. Như khi bị mây che thì khôngthấy mặt trăng nhưng nói không có trăng, chỉ có mây, thìkhông đúng. Sự thật thứ nhất xácnhận trong giây phút hiện tại có những khổ đau. Nhưng khôngcó nghĩa đời chỉ là khổ đau.
Đờichỉ khổ đau là lối giáo dục nhồi sọ. Đời có thểcó hạnh phúc, có thanh thoát. Mình không muốn giáo dục nhồisọ. Đời là khổ là lối giáo dục nhồi sọ. Có những đaukhổ trong cuộc đời, nhận diện những đau khổ đó là cóthật. Đó là sự thật thứ nhất. Tại vì khi mình đi tớisự thật thứ ba, khổ diệt -Diệt đế- là sự vắng mặtcủa khổ đau. Sự thật thứ nhất là sự có mặt của khổđau. Sự thật thứ ba là sự vắng mặt của khổ đau. Vắngmặt khổ đau đồng nghĩa là sự có mặt của hạnh phúc,phải vậy không? Cũng như vắng mặt bóng tối là sựcó mặt của ánh sáng. Nếu khộng có bóng tối thì cái nàothay thế bóng tối nếu không phải là ánh sáng? Vì vậy chonên sự thật thứ ba là hạnh phúc có thể có được. Sựthật thứ nhất xác định sự có mặt của khổ đau. Sựthật thứ ba xác định sự có mặt có thể có của hạnhphúc. Hai sự thật đó đối đãi với nhau. Chấp nhận sựthật thứ nhất là phải chấp nhận sự thật thứ ba. Chấpnhận sự thật thứ ba thì phải chấp nhận sự thật thứnhất. Cũng như nói có bùn thì mới có sen. Không có bùn thìkhông có sen. Vì vậy sự thật thứnhất là đối với sự thật thứ ba mà nói.Không thể nào hiểu được sự thật thứ ba nếu không hiểuđược sự thật thứ nhất. Thành ra cái thấy đầu tiên củamình về sự thật thứ nhất là xácnhận sự có mặt của khổ đau vàsựthật thứ ba là xác nhận khổ đau có thể chấm dứt đểhạnh phúc bắt đầu có mặt. Đólà hai đế, thứ nhất và thứ ba. Như vậy thì không bi quan,yếm thế, không có giáo dục nhồi sọ. Nó rất khoa học.Ngày xưa cũng như bây giờ chúng ta muốn miêu tả sự thậtthứ nhất và các sự thật khác. Ngày xưa chúng ta miêu tảsự thật theo kiểu ngày xưa, rất là đơn sơ. Sanh là khổ,già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Đó là bốn cáikhổ đau.
Ngàyxưa định nghĩa khổ thì có sanh, có già, có bệnh, cóchết. Bây giờ chúng ta không hẳn phải định nghĩa giốngnhư ngày xưa. Tại vì sanh ra một đứacon có thể mang lại niềm vui cho rất nhiều gia đình. Mìnhcó thể ăn mừng khi có những đứa con sinh ra, vì thế sinhchưa hẳn đã là khổ. Có thể tronglúc sinh có những khó khăn của bà mẹ, có tiếng khóc oa oacủa đứa con, có những giây phút khó khăn nhưng có cái gìkhông khó khăn đâu? Được một mảnh bằng cũng khó khănlắm chứ, có một sở làm cũng khó khăn lắm chứ, phải không?Vì thế sanh có thể có chút khó khăn nhưng sanh có thể làđiều rất vui, nếu không vì sao mình hát „happy birthday toyou“.
Cònlão là già, hai chân đi yếu, nhai cơm trệu trạo khôngnhỏ. Đi còng lưng lại, hai bên hai người đỡ, khổ thật.Không được như tuổi trẻ, muốn nhảy thì nhảy, muốn chạythì chạy. Nhưng tuổi già cũng có hạnh phúc của tuổigià. Đây là kinh nghiệm trực tiếp. Tuổi già thanh thảnhơn, không vội vàng, hối hả, không bồn chồn như tuổi trẻ.Thử tưởng tượng mình như dòng suối cao chảy xuống thìmình nhảy nhót, ca hót, chạy rất nhanh, càng nhanh càng tốt.Đó là tuổi trẻ. Dòng suối đi xuống đồng bằng thì chảychậm lại khi dòng suối trở thành dòng sông thì êm ả hơn,lắng dịu hơn. Dòng sông trôi rất bình thản, nhẹ khỏe hơnnhiều. Khi có an thì có lạc nhiều hơn. Khilớn tuổi mình đằm lại, mình có nhiều thì giờ hơn, mìnhsống đàng hoàng hơn. Già có thể nhẹ nhàng, có thể ung dung,có thể sâu sắc hơn nên già chưa hẳn là khổ.
Bệnhcố nhiên là khổ rồi. Nhưng nếu không có bệnh thì mìnhkhông có cơ hội để thấy được, không bệnh là hạnhphúc. Ví dụ mình đau răng. Khi đau răng vào khoảng ba giờkhuya, thức chờ đến tám giờ sáng phòng mạch của nha sĩmới mở cửa. lúc đó mình mới giác ngộ, không đau rănglà hạnh phúc quá chừng. Khổ đau nó dạy cho mình biết mìnhđang có hạnh phúc. Mình có thể đánh mất hạnh phúc đóbất cứ lúc nào. Anh đang khổ nhưng kỳ thực anh đang córất nhiều điều kiện hạnh phúc. Anh chỉ cần trở về giâyphút hiện tại, khám phá ra những điều kiện hạnh phúc đólà anh hạnh phúc liền. Khổ đau cũng là một cần thiết chocuộc đời. Nếu không có khổ thì con người không có thểlớn lên được. Chính khổ đau làm cho mình thành người.Nơi nào không có khổ đau, nơi đó con người không lớn lênđược, không biết thương, không biết hiểu, hai điều làmcho người ta hạnh phúc. Nhất là hiểu biết và thương yêu,hai cái đó chỉ có thể un đúc được khi có khổ đau. Hiểuđược cái khổ thì mình mới chấp nhận thương yêu. Vì vậycho nên cái khổ rất là cần. Mỗi người cần có mộtítkhổ đau, vấn đề là liều lượng của khổ đau. Liều lượngđúng thì rất là hay, liều lượng sai thì không được, nhưkhi mình nấu canh, cần bỏ bao nhiêu muối, muối nhiều thìkhông ngon. Mỗi người trong chúng ta phải có cái liều khổđau nào đó để chúng ta có thể lớn lên được. Con cháucũng vậy, đừng sợ con cháu khổ, chỉ sợ con cháu khônghọc hỏi được từ khổ đau mà thôi. Chính khổ đau làmcho mình trưởng thành, làm cho mình thành người lớn. Khổđau đóng vai trò rất lớn trong việc chế tác từ bi, hiểubiết và thương yêu. Người phật tử không sợ khổ. Ngườiphật tử nhìn thẳng vào khổ đau, học hỏi từ khổ đauvà lớn lên nhờ khổ đau. Thái độ trốn chạy không phảilà thái độ của đạo Phật. Vì vậy cho nên người ta hỏi,tạisao khổ là một sự thật cao quý? Khổ có gì cao quýtrong cái khổ đau đâu mà nói khổ đế là sự thật cao quý?
Bâygiờ bắt đầu hiểu, nói Khổ đế là sự thật cao quý vìnhờ khổ đế mà mình có thể học hiểu, học thương vàgiác ngộ được. Cũng như không có bùn thì làm sao mà cósen. Nếu không có khổ đau thì không có hiểu và thương. Vìvậy xác định khổ đế là một sự thật cao quý, một sựthật mầu nhiệm, một sự thật thánh thiện. Nếu mình chỉlà nạn nhân của khổ đau, không học hỏi được từ khổđau, sợ hãi trốn tránh khổ đau, thì cái khổ đó không còncao quý nữa. Khuynh hướng con người là chạy trốn khổ đautrong khi đức Thế tôn dạy đừng chạy trốn khổ đau, hãycan đảm nhìn thẳng, đối diện với khổ đau để học hỏivà để lớn lên. Cho nên sự thật thứ nhất là một sựthật cao quý, là một sự thật thánh thiện, là một sự thậtmầu nhiệm, một diệu đế, thánh đế.
Chếtcũng vậy. Chết không hẳn chỉ làkhổ. Với một người đã sống lâu,đã mệt mỏi, đã có những khó khăn trong cơ thể thì chếtlà một cái rất tốt cho họ để họ có thể tiếp tục dướidạng khác trẻ hơn, tươi hơn, mát hơn. Tưởng tượng làmình bị lên án không bao giờ được chết. Người ta cho mìnhbản án, anh không bao giờ được chết hết. Anh phải sốngtừ đời này sang đời khác, không biết quý vị có chịunỗi hay không? Có những lúc mình quá mệt mỏi, có quá nhiềuđau nhức thì chết là cái giải thoát để mình có thể hóasinh ra kiếp mới lành hơn, mạnh hơn. Vì vậy chưa hẳn chếtđã là cái hoàn toàn xấu. Nếu không có cái chết thì làmgì có cái sống! Cái chết và cái sống tương tức với nhau.Ví dụ mình gieo hạt bắp xuống đất. Nếu hạt bắp khôngchết để nhường chỗ cho cây bắp thì làm gì có tương lai?Cho nên chết là điều kiện rất cầnthiết cho cái sống. Mình phải chếtcho mình được sống, cho con cháu mình được sống. Mình làmphân bón cho chính mình, cho con cháu mình. Mình nuôi con cháumình và hạt bắp dự trữ những chất dinh dưỡng của mộtbà mẹ. Khi cây bắp sinh ra rồi thì hạt bắp dùng hết nhữngnhựa sống trong hạt bắp đó để nuôi cây bắp lớn lênvà để cây bắp đâm rễ. Sau khi lấy hết những chất nhựatrong hạt bắp rồi thì nó bắt đầu lấy chất dinh dưỡngtrong lòng đất. Chết là một điều rất mầu nhiệm. Mìnhđang chết từ từ để nuôi dưỡng con cháu mình, tức mìnhnuôi dưỡng chính mình trong tương lai. Tại vì hạt bắp vớicây bắp không phải là hai thực thể riêng biệt. Cây bắplà sự nối tiếp của hạt bắp. Chừng nào cây bắp còn làhạt bắp còn. Cái chết đó không hẳn là chết. Chết làđiều kiện thiết yếu cho sự sống được tiếp tục. Thấyđược như vậy thì không sợ chết nữa và mình có thể mỉmcười với cái chết.
Ngàyxưa miêu tả sinh,lão, bệnh, tử toàn là tiêu cực mộttrăm phần trăm. Tu là để thoát khỏi bốn cái đó. Khôngsinh, không già, không bệnh, không chết. Sinh, lão, bệnh, tử:khổ.
Cầubất đắc: khổ. Những gì mình ước mơ, mong đợi, thèmkhát mà không được, ví như mãnh bằng hay chức vụ, hay sựnghiệp giàu sang… những cái đó, mong ước mà không có làkhổ! Cầu bất đắc, khổ. Đây là sự thật. Nhưng khổ nàykhông phải là một thực tại khách quan. Tại do mình cầucho nên khổ. Không cầu thì có khổ đâu? Nếu mình không muốnmãnh bằng thì làm gì có khổ? Vì mình muốn có bằngnên mới khổ. Đôi khi có bằng còn khổ hơn nữa. Có mảnhbằng, vui vui được vài bữa, rồi thấy mảnh bằng này chẳngcó giá trị gì, lại muốn cái khác. Cầu không được thìkhổ nhưng cầu được cũng khổ như thường. Sựthật này cũng không đúng lắm. Cầu cái đó, đượcrồi thì mình cầu cái khác. Thành ra cầu đắc cũng khổ chứkhông phải cầu bất đắc mới khổ. Vấnđề ở chỗ cầu hay không cầu mà thôi.
Nhữngcái mà người xưa dùng để miêu tả sự thật thứ nhất,mình phải nhìn cho sâu mới hiểu, đó là cách hiểu củangười xưa. Không hẳn bây giờ mình phải theo cái hiểuđó. Phật học là một khoa học. Mình là một học giả, mìnhlà một nhà khoa học, mình phải khám phá càng ngày càng sâuthêm chứ tại sao cứ ngồi đó mà lập đi lập lại nhữngđiều người xưa đã nói. Tổ Lâm Tế đã nói như vậy đó.Đừngê a lập lại những giáo điều của người xưa. Mình đâuphải là cái máy record, mình đâu phải là cái máy cassette.
Xem thêm: Bóng Đá Trực Tiếp Hôm Nay Ngoại Hạng Anh Hôm Nay 16/12/2021, Lịch Thi Đấu Bóng Đá Hôm Nay Mới Nhất
Áibiệt ly, khổ. Thương nhau mà không được ở gần nhau,khổ. Đây là sự thật nhưng chỉ là một nữa của sựthật thôi. Ban đầu bị chúng<1> gởi đi xóm khác, cũnghơi buồn. Ai ngờ đi xóm khác những vướng mắc kia tan đi,mình khỏe. Mình hạnh phúc hơn nhiều. Mình có những dây mơrễ má, vướng mắc cái này, vướng mắc cái kia, tưởng rằngkhông gần nhau thì khổ lắm. Ai dè qua xóm kia ở một nămrồi, không muốn về nữa. Thành ra áibiệt ly chưa hẳn là khổ. Nó có thểđem lại hạnh phúc. Có những người đi qua cầu đó rồi.Biết rằng cái cầu đó mình nghĩ không đi qua cũng được.Bây giờ mình đã thoát khỏi ra rồi, mình nghĩ, trời đấtơi, hồi đó mình khổ biết bao nhiêu. Bây giờ mình thoátra khỏi, mình nhẹ nhàng biết bao nhiêu. Biệtly, xa cách đôi khi làm cho mình thương nhau hơn, quý nhau hơn.Phải vậy không thầy, võ sư? Biệt ly giúp mình trân quý sựcó mặt của nhau hơn. Ở gần nhau, coi thường nhau. Khi ngườikia đi xa rồi mình thấy, trời đất ơi, người đó dễ thươngquá! Biệt ly chưa hẳn là cái hoàn toàn xấu. Nó cũng có cáihay. Mình phải thấy được. Người xưa nói, có sự thật,nhưng không phải là sự thật tuyệt đối, sự thật trămphần trăm. Mình phải nghe, phải hiểu bằng cái thông minhcủa mình, bằng sự nhận thức độc lập của mình.
Óantằng hội, khổ: Những người mình ghét mà cứ ở vớihọ thì khổ. Mình chỉ có hạnh phúc được khi tách rời,đi xóm khác, mới được hạnh phúc.
Ngoàiđời có những cặp vợ chồng khi mới yêu nhau, mới cướinhau thì họ nói, không có em làm sao anh sống sót được, chắcanh chết quá. Nếu không có em thì đời anh không nghĩa lýgì. Không có anh cũng vậy, đời em chẳng còn ý nghĩa gì cả,thà em chết, không bao giờ cưới người khác. Nhưng nếu khôngtu tập thì chừng ba bốn năm sau, họ có cảm tưởng khác.Người kia là gánh nặng cho mình, mỗi khi thấy người kiathì mình không hạnh phúc nữa. Ban đầu thì nhìn nhau cũngđủ no, bây giờ nhìn mặt nhau không được nữa. Nói chuyệnvới nhau không được nữa vì gây nội kết cho nhau quá nhiều.Bắt buộc phải sống với người này đến trăm năm, chắcmình chết quá. Tình yêu ngày xưa đẹp như vậy mà bây giờtrở thành ngục tù chung thân. Oán tằng hội khổ. Mình phảichịu đựng ổng suốt đời mình hay sao? Mình phải chịu đựngbà cho hết đời hay sao? Cái đó nó do tâm. Nếu mìnhcó Phật pháp, mình có thể chuyển hóa, thay đổi được.Óantằng hội khổ không phải là sự thật khách quan. Có Phậtpháp mình thay đổi được hết. Ghét nhau mà mỗi ngày nhìnthấy mặt nhau, chán quá. Nhưng có mặt của từ bi thêm vào,nó khác hẳn ngay lập tức.
Ngũấm xí thạnh, khổ: Năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành,thức nếu không điều hòa cũng tạo ra khổ. Cái này quá mạnh.Xí là cháy lên, trở thành bao trùm những cái khác, làm mấtthăng bằng. Một trong những yếu tố của năm uẩn như giậnbuồn, lo hay năng lượng trong thân thể như năng lượng tìnhdục chẳng hạn, nếu nó lên nhiều quá thì nó làm mình khổ.Năng lượng của sự lo lắng, tăng lên cũng làm mình khổ.Trong Quy Sơn Cảnh Sách mà mình đọc sáng nay có câu: Tuy tứđại phù trì thượng tương vi bối, hình hài này tuy đượcbốn yếu tố đất nước, không khí và sức nóng nâng đỡnhưng bốn yếu tố đó có khi chống chọi nhau. Nhiều khi hỏabốc lên nhiều thì mình cũng khổ, nước nhiều quá cũng khổ,gió nhiều cũng khổ vì vậy sự thăng bằng phải khéo léođể giữ gìn. Nếu không có sự thăng bằng đó trong năm uẩnvà trong tứ đại thì cũng khổ. Đây là sự thật cần khámphá, nhưng nó quá vắn tắt. Sau này các thầy, các sư cô phảikhai thác ngũ ấm xí thạnh khổ này cho rõ ràng, khoa học hơn.
Mìnhlà người học Phật của thế kỷ hai mươi mốt, mình lànhà khoa học trong lãnh vực thực tập đạo Phật trong thếkỷ 21, mình phải có sự trình bày khác hơn về sự thậtthứ nhất. Nó thích hợp hơn, tại vì trong chúng ta, ai cũngtừng khổ. Dù chúng ta còn trẻ có thể chúng ta đã khổ rồi.Có khi mới hai tuổi, ba tuổi, đã bắt đầu khổ rồi. Khổđó là những kinh nghiệm trực tiếp, mình khổ cái gìthì mình nói ra cái đó. Những khổ đau có thiệt chứ khônghẳn là những điều người xưa đã nói. Đó là những côngthức của người xưa để giảng bày cái khổ. Không hẳnlà mình phải theo nhưng mình phải biết. Phật pháp phải khếcơ, tức là nó phải đáp ứng được những nhu yếu đangcó thực của con người.
Sựcăng thẳng ở trong thân và tâm.
Cáikhổ đầu tiên mà mình phải nói tới là sự căng thẳngở trong thân và trong tâm của mình. Đó là một sự thậtkhông phải chỉ riêng cho cá nhân mình mà cho cả xã hội.Đó là sự dồn nén, sự căng thẳng trong thân và trong tâm,stress. Quán chiếu thì mình thấy mình đang sống trong thếkỷ, trong môi trường đang tạo ra sự căng thẳng trong thânvà trong tâm. Nhà chính trị, nhà doanh thương, nhà giáo dục,tất cả chúng ta không có thì giờ để sống. Chúng ta bậnrộn quá nhiều, chúng ta lo toan công việc. Ngay các thầy trụtrì cũng vậy. Các sư cô, sư bà cũng vậy, quá nhiều côngviệc. Phải lo cái này, phải lo cái kia, phải có những cáihẹn chót, deadline, vì vậy, mỗi ngày mình dồn chứa sự căngthẳng trong thân của mình. Mình gồng nên mình căng thẳngvà vì những căng thẳng đó, những stress đó nên mình khôngthoải mái. Đó là cái khổ đầu tiên. Mai mốt mình sẽ cómột khóa cho những nhà doanh thương ở Hội An, mình sẽ nóirằng, tôi biết các ông có rất nhiều đòi hỏi, rất nhiềucăng thẳng ở trong cơ thể. Các ông có cơ hội để sốngbuông thư thoải mái ở trong chùa. Quý vị có những giờngồi thiền, buông thư hết "nothing to do, no where to go" khôngcần đi đâu hết, không cần làm gì. Mình có thể sử dụngđiều hòa hơi thở, buông bỏ những căng thẳng trong thânrồi trong tâm ra. Ngồi thiền như vậy rất là trị liệu.Mình có thể chia sẻ cái đó với các nhà chính trị, cácnhà doanh thương, những người phải đi làm tám hay mườigiờ một ngày ở ngoài đời. Tất cả chúng ta đều có sựcăng thẳng trong thân. Phương pháp của Bụt dạy là lấy đinhững căng thẳng đó như trong kinh An Ban Thủ Ý -quán niệmhơi thở- thì hơi thở thứ ba là lấy đi những căng thẳngđó.
Thởvào tôi có ý thức về toàn thân tôi. Khi thở vào mình cóý thức nương theo hơi thở, mình nhận diện sự có mặt củacơ thể mình với sự dồn chứa, với những căng thẳng trongđó. Khi mình thở ra, mình thở nhẹ nhàng, buông hết nhữngcăng thẳng đó trong cơ thể. Đó là bài tập thứ ba và thứtư trong kinh An Bang Thủ Ý. Ngay từ hồi đầu, đạo Bụt đãcó những pháp môn để chữa trị những sự căng thẳng củacon người. Bài tập thứ ba và thứ tư trong kinh là để nhậndiện những căng thẳng trong cơ thể và để buông bỏ nhữngcăng thẳng trong cơ thể.
Nhậndiện cơ thể, trong kinh gọi là thân hành giác. Chữ giác nàytức là niệm, ý thức được, nhận diện được cái hìnhhài của mình. Những cảm thọ, cảm xúc của mình gọi làtâm hành, còn đây là thân hành. Trở về tôi nhận diện đượchình hài của tôi, thân hành giác. Thở vào, thở ra, tôi buôngbỏ những căng thẳng trong toàn thân tôi thì gọi là thânhành tức. Chữ tức trong nguyên văn có hai nghĩa. Nghĩa thứnhất là hơi thở, ở trong kinh An Bang Thủ Ý còn có nghĩalà làm lắng dịu lại.
Vậythì mình phải diễn tả những cái khổ đang có thật trongcon người và những cái khổ mình trông thấy chung quanh mình.Trước hết mình thấy có sự căng thẳng, có sự bất an.Không có an trong thân. Thân mình bất an. Có những đau nhức,có những dồn nén, có những căng thẳng trong con người mìnhvà có những đau nhức, có những căng thẳng, có những dồnnén trong tâm mình, bất an. Bất an tức là không có hạnh phúc.Trong chúng ta người nào lại không có những giây phút bấtan? Chúng ta ngồi không yên. Chúng ta đứng không yên. Chúngta nằm cũng không yên. Trăn trở khi nằm, cuống quýtkhi đi, ngồi như ngồi trên đống lửa, cái đó là hiện tượngbất an. Đây là cái khổ có thật trong mỗi con người củachúng ta và trong xã hội nói chung. Trong khi đó, đức ThếTôn ngồi rất là an. Ngài đi rất là an. Nụ cười chứngtỏ ngài có cái an trong đó.
Bấtan bao gồm những lo lắng, sợ hãi, tuyệt vọng, giận hờn,bạo động. Bạo động là năng lượng thúc đẩy mình muốnla, muốn hét, muốn đập phá, trừng phạt những người thươngcủa mình, trừng phạt người hôn phối của mình. trừng phạtcon của mình và đôi khi trừng phạt ngay chính mình. Nó cósự bạo động trong mỗi chúng ta. Trong ta có những bức xúc,lo lắng, sợ hãi mà không xử lý được. Mình không biếtcách xử lý. Mình không biết cách chuyển hóa cho nên mìnhdồn nén và trở thành trái bom của những tâm hành. Thân hànhlà hình hài của mình. Tâm hành là những cái đó.
Khiđi sang lãnh vực thọ, thì mình thấy có những sợ hãi, lolắng, tuyệt vọng, giận hờn, bạo động. Đó là những tâmhành, những cảm xúc. Tuyệt vọng là một cảm xúc, sợ hãilà một cảm xúc. Người tu thì phải biết cách nhận diệnvà xử lý những cái đó. Vì vậy trong kinh quán niệm hơithở, có bài tập thứ bảy và thứ tám. Bài tập thứ bảylà thở vào, theo hơi thở, trở về với tâm (trước đó làtheo hơi thở trở về với thân, giờ là theo hơi thở trởvề với tâm) để nhận diện những cảm xúc đang có mặt.Cảm xúc đó có thể là những lo lắng sợ hãi, ganh tị…gọi là tâm hành giác. Ý thức được những tâm hành đangcó trong mình. Tâm hành đó là sự sợ hãi, sự lo sợ. Thởvào, tôi biết rằng trong tôi đang có sự sợ hãi. Thở vàotôi biết rằng trong tâm tôi đang có sự lo lắng. Đó là sựnhận diện. Giác là nhận diện. Văn này rất là xưa -vănA hàm, tạp A hàm- rất là xưa, thế kỷ thứ ba, thứ tư Tâylịch. Phải hiểu đúng ý nghĩa của văn xưa.
Tâmhành tiếng Phạn là Cittasamskara. Samskara là hành. Citta là tâm,những hiện tượng về tâm như sự sợ hãi, sự lo lắng.
Thởvào tôi ý thức được tâm hành đang có mặt trong tôi. Thởra tôi làm nhẹ đi tâm hành đó. Tôi nhận diện, tôi ôm ấpnó và tôi làm cho nó nhẹ xuống. Người tu phải học đểlàm cho được chuyện đó khi có những lo lắng, sợ hãi tuyệtvọng thì phải biết ngồi xuống, theo dõi hơi thở để trởvề nhận diện tâm hành đó, ôm lấy nó một cách rất nhẹnhàng, làm cho nó nhẹ nhàng trở lại. Đó là tâm hành tức.
KinhQuán Niệm Hơi Thở là một kinh rất là khoa học và có thểđem ra áp dụng trong lãnh vực y khoa, trong lãnh vực tâm lýtrị liệu, cả trong những lãnh vực chính trị và giáo dụcnữa.
Thânhành là Kayasamskara. Kaya là thân. Khi mình có những giận hờn,buồn bã tuyệt vọng, mình không xử lý được, mình bị dồnnén xuống thì tự nhiên cách mình đối xử, nói năng vớingười kia trở thành bạo động, trách móc. Mình gây khổđau cho người kia và từ từ sự truyền thông giữa hai ngườikhông còn nữa. Cha không còn nói chuyện được với con. Congái không còn nói chuyện được với mẹ. Trong chùa cũng vậy,nếu mình chỉ lo làm việc mà không tu thì thầy trò cũng khôngnói chuyện được với nhau. Ngày hôm kia tôi có thấy mộtcặp thầy trò mà thầy không còn gọi con một cách ngọt ngàovới đệ tử của mình được nữa mà xưng là tui. Tui vớithầy, tui với cô. Nếu mình đã là người tu, đã là ngườixuất gia mà giữa thầy trò, không có sự truyền thông tứclà cả hai thầy trò đều thiếu sự thực tập. Thầy làmkhổ cho trò, trò làm khổ cho thầy. Đó là sự thất bạicủa cả hai thầy trò. Đừng để cho chuyện đó xảy ra. Ốtdột<2> lắm nghe con! Giữa huynh đệ cũng vậy. Giữa huynh đệcũng đừng để xảy ra như vậy. Đó là sự thất bại củacả chúng. Khi một cặp huynh đệ không nói chuyện đượcvới nhau thì mình thấy rõ đó là sự thất bại của mình.Mình phải tới để giúp hai người đó. Vì vậy một trongnhững cái khổ mà mình thấy được là truyền thông bế tắc.Đây là sự thật về khổ đế. Có sự truyền thông bế tắcgiữa cha con, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa đồng nghiệp,giữa huynh đệ trong tăng thân. Khi thiếu sự truyền thôngtrong tăng thân thì tăng thân đó chưa phải là tăng thân thiệt.Dù là ở chung dưới một ngôi chùa nhưng không ai nói chuyệnđược với ai, thì đó không phải là tăng thân, đó khôngphải là tăng bảo, không phải là chỗ để người ta quy y,không phải là chỗ nương tựa cho người ta. Muốn tăng bảolà chỗ để người ta nương tựa được thì mình phải làmthế nào để trong tăng thân có sự truyền thông với nhaugiữa thầy trò, giữa huynh đệ. Đó là sự thực tập củamình, đó là sự thực tập căn bản. Không có sự truyềnthông thì có sự lên án, trách móc, đỗ lỗi tại vìngười kia. Mình không có lỗi gì hết. Tất cả khổ đau làdo người kia. Có sự đổ lỗi cho nhau. Mỗi người trong chúngta phải tiếp tục, vì thầy đâu có thể làm cho mình được.
Biếtơn người xưa là phải học cái hay củangười xưa và làm cho hay hơn người xưa.
Mỗithầy, mỗi sư cô, sư chú, mỗi đạo hữu, phải về lấymột tờ giấy, trình bày khổ đế trên căn bản kinh nghiệmriêng của mình. Mình khổ cái gì và những người chung quanhmình khổ cái gì thì viết ra hết. Mỗi người phải có bảntrình bày Tứ Diệu Đế của mình và nó càng gần sự thậtchừng nào thì tu càng dễ thành, dễ chuyển hóa chừng đó.Không cần phải lập lại những lời của người xưa. Ngườixưa ở trong khung cảnh khác. Văn hóa, kinh tế, chính trị khác.Tại sao bây giờ mình phải lập lại. Mình phải lấy kinhnghiệm trực tiếp để nói ra những cái khổ thực có củamình. Ví dụ như tự tử. Tự tử có phải là cái khổ không? Ở Pháp, dân số ít hơn dân Việt nam mà mỗi năm có mườihai ngàn thanh niên tự tử. Cha mẹ làm ăn sao đó mà con cáibức xúc. Con cái làm ăn sao đó mà cha mẹ bức xúc. Hai bênthiếu sự truyền thông với nhau rồi đưa đến những cảmxúc lớn như tuyệt vọng, hận thù, không xử lý được, nghĩrằng khổ quá, chỉ còn cách tự tử cho bớt khổ mà thôi.Ở Anh số thanh niên tự tử còn nhiều hơn nữa. Ở HồngKông những người trẻ nhảy từ cao ốc tự tử rất nhiều.Ở Việt Nam tình trạng này cũng đang gia tăng. Năm ngoái cónăm nữ học sinh trung học rũ nhau cột tay nhau nhảy sông tựtử một lần tại vì cha mẹ muốn mình làm những cái màmình không thể nào làm được. Cha mẹ trách móc, cha mẹ ápđặt, bức xúc mình nhiều quá. Cái đó là do thiếu truyềnthông mà ra. Do thiếu hiểu cho nên không thương. Mình sốngtrong thế kỷ của mình, trong thời đại của mình, mình phảidiễn bày như thế nào để sự thật thứ nhất cho phù hợpchứ đừng bắt chước người xưa, cầu bất đắc khổ, oántằng hội khổ, nó không phù hợp với bây giờ. Nói như vậykhông có nghĩa là mình không biết ơn người xưa. Một cáchhay nhất để biết ơn người xưa là phải học cái hay củangười xưa và làm cho hay hơn người xưa. Cha mẹ luôn luônmuốn cho con hay hơn mình, thầy luôn luôn muốn học trò,đệ tử giỏi hơn mình vì vậy cho nên mình phải đi tới.Đạo phật càng ngày càng đẹp hơn càng rộng hơn, càng sánghơn chứ đừng giữ lại cái đạo Phật của năm xưa. Vìvậy cho nên sau khi đã có đạo phật nguyên thủy, mình đãcó đạo phật bộ phái rồi đạo phật Đại thừa, rồi đạophật nhập thế. Phải càng ngày càng đi lên.
Khimình có bảng ghi đệ nhất khổ đế rồi thì mình giữ đó.Mình có thể trao đổi với các huynh đệ. Sư anh thấy sao?Sư anh có thể cho em xem với. Mình trao truyền với nhau đểcó sự bổ túc rồi có buổi họp tăng thân để diễn tảtrình bày về đệ nhất khổ đế hiện đại. Khi người trẻnhìn vào họ thấy đây là vấn đề của chính mình. Họ nóinếu anh có những nỗi khổ như thế này thì sẽ có con đườngthoát khổ cho anh. Nó đi tới sự thật thứ hai, sự thậtthứ ba, sự thật thứ tư, nhưng trước hết phải gọi đúngtên của nó, những đau khổ hiện thực bây giờ của ngườitrẻ. Mình không cần làm riêng. Mình có thể làm chung tăngthân hoặc nhiều tăng thân. Tăng thân này trao đổi với tăngthân khác cho đến khi mình có một cái bảng diễn tả rấtđầy đủ bốn sự thật, nhất là sự thật thứ nhất. Sựthật thứ nhất đầy đủ rồi hoặc gần như đầy đủ thìsự thật thứ hai, sự thật thứ ba, thứ tư sẽ khá. Nếusự thật thứ nhất không nói ra được hết và được sâuthì sự thật thứ hai, thứ ba, thứ tư không đi xa đượcđâu. Tất cả đều từ sự thật thứ nhất mà ra.
Địacầu đang bị hâm nóng
Nhữngsự thật mà người ta không thể không công nhận là địacầu đang bị hâm nóng và thời tiết thay đổi đáng sợ.Có những trận bão như trận bão ở Miến Điện, chết trênmột trăm ngàn người. Những trận động đất như ở TứXuyên chết trên ba chục ngàn người trong giây lát vì con ngườiđã khai thác thiên nhiên không thương tiếc. Ba chục năm qua,Trung Quốc muốn chạy theo các nuớc tây phương đã khai thácthiên nhiên không thương tiếc. Thiên nhiên đã quật trở lại.Đólà cái khổ của thế kỷ hai mươi mốt mà mình phải viếtra như một phần của đệ nhất khổ đế. Hiệu ứng nhàkính, sự thay đổi của khí hậu, địa cầu bị hâm nóng.Mình phải nối tiếp công trình của đức Bổn sư. Đức Bổnsư đã khai phá ra. Là kẻ đi sau mình phải trình bày khổđế một cách đầy đủ rõ ràng hiện thực. Đừng ở tronggiấc mơ, đừng lập lại như con vẹt những gì ngườixưa đã nói.